Tuesday, November 1, 2011

Do's and Dont's

Do and Don_t

Bài học của đức Thế Tôn về việc

Bài học của đức Thế Tôn về việc

Ngón Đeo Nhẫn

Ngón đeo nhẫn

Buddha

Wednesday, July 20, 2011

Quốc kỳ Việt Nam


Quốc kỳ Việt Nam
Là lá cờ đại diện cho Việt nam, là lá Cờ đỏ sao vàng, hình chữ nhật, chiều rộng bằng 2/3 chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Ý nghĩa là cờ thể hiện trong nền đỏ tượng trưng cho cách mạng, màu vàng là màu truyền thống tượng trưng cho dân tộc Việt nam và năm cánh sao tượng trưng cho năm tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh cùng đoàn kết. Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng màu đỏ nền cờ tượng trưng dòng máu đỏ, màu vàng ngôi sao tượng trưng da vàng, và năm cánh tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt nam.
Lá cờ này xuất hiện lần đầu tiên tại Khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23 tháng 11 năm 1940, và sau đó trở thành lá cờ của Việt minh. Cờ đỏ sao vàng được lực lượng Việt Minh sử dụng hiệu triệu nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong thời gian Cách mạng Tháng Tám, nhân dân hầu hết các nơi dưới sự lãnh đạo của Việt Minh sử dụng lá cờ này. Riêng tại một số nơi Nam Bộ,Thanh niên tiền phong là tổ chức chính tham gia giành chính quyền, lúc này đã gia nhập Việt Minh nên tùy từng nơi sử dụng lá cờ đỏ sao vàng, hay sử dụng cả hai lá cờ (của Việt Minh và lực lượng Thanh niên tiền phong) hay sử dụng cờ vàng sao đỏ của Thanh niên tiền phong, hoặc kết hợp với cờ búa liềm của Đảng cọng sản Đông dương.
Sau khi giành được chính quyền, thì cờ Việt Minh được sử dụng biểu tượng một nước Việt Nam mới đến trước khi công bố độc lập ngày 2.9.1945. Quốc dân Đại hội tại Tân Trào đã quyết nghị lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ của nước Việt Nam độc lập. Sau khi Việt Minh giành được chính quyền, ngày 2 tháng 9 năm 1945, cờ đỏ sao vàng chính thức xuất hiện trong buổi lễ Tuyên bố độc lập tại quảng trường Ba đình. Nó được công nhận là quốc kỳ của nướcViệt nam dân chủ cộng hòa theo sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ chí minh ngày 5 tháng 9 năm 1945, và được Quốc hội khoá 1 năm 1946 khẳng định lại.
Trong cuộc họp Quốc hội khóa I quy định cụ thể về quốc kỳ ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu, từ châu Âu về châu Á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kỳ và quốc ca".. Hiến pháp năm 1946 cũng xác nhận cờ đỏ sao vàng là cờ của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sau năm 1954, Hiến pháp 1959 cũng xác nhận lại cờ đỏ sao vàng là cờ của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trước khi Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam thành lập vào tháng 12 năm 1960, thì phong trào đấu tranh cách mạng trong Nam (tiêu biểu là phong trào Đồng khởi) cũng sử dụng cờ đỏ sao vàng. Năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Quốc hội Việt nam khóa VI đã lấy cờ đỏ sao vàng, quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm quốc kỳ của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với vài thay đổi nhỏ so với mẫu cờ nguyên thủy



Theo dòng lịch sử, lá cờ đại diện cho các chính quyền tại Việt Nam đã có nhiều hình dạng khác nhau.
Tại Việt Nam trước đây các nhà cầm quyền đã có các hiệu kỳ thường mang màu phù hợp với "mạng": người mạng kim thì cờ màu trắng, người mạng mộc mang màu xanh, mạng thủy thì màu đen, người mạng hỏa treo cờ màu đỏ, người mạng thổ dùng cờ màu vàng. Màu cờ của các triều đại thì được chọn theo thuyết của học phái Âm Dương Gia nhằm giúp triều đại hợp với một hành đang hưng vượng. Ngoài cờ của triều đại, các nhà vua đều có thể có lá cờ riêng, chỉ để biểu tượng cho hoàng gia.
Có nguồn cho biết Hai bà trưng (40-43) và bà Triệu thị Trinh (222-248) đã dùng cờ màu vàng trong các cuộc khởi nghĩa của họ.
Vua Gia long (1802-1820) dùng màu vàng cho là cờ tiêu biểu của vương triều mình. Có nguồn cho biết vua Khỉa định (1916-1925), khi sang Paris dự hội chợ đấu xảo, cùng các quan Nam triều sáng chế tại chỗ cờ Long Tinh (thêm hai vạch đỏ tượng trưng cho hình rồng vào giữa lá cờ vàng) vì cần thiết cho nghi lễ. Tuy nhiên, từ "cờ long tinh" có lẽ đã xuất hiện từ thời vua Gia Long. Cụ thể, nó có tên Hán "Long Tinh Kỳ" với "Kỳ" là cờ; "Long" là rồng, biểu tượng cho hoàng đế, có màu vàng với râu tua màu xanh dương, tượng trưng cho Tiên và đại dương là nơi rồng cư ngụ; "Tinh" là ngôi sao trên trời, cũng là màu đỏ, biểu tượng cho phương Nam và cho lòng nhiệt thành, chấm ở giữa. Tóm lại "Long Tinh Kỳ" là cờ vàng có chấm đỏ viền tua xanh.
Khi Pháp mới tấn công Việt Nam, Việt Sử Toàn Thư (trang 467) ghi "Từ Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay khắp nơi"; có tác giả chú thích rằng cờ này chính là cờ long tinh của nhà Nguyễn.
Có nguồn cho biết, năm 1821, vua Minh mạng còn lấy đại kỳ màu vàng, chung quanh viền kim tuyến (chỉ vàng).


Cờ thời Pháp thuộc
Trong thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền bảo hộ Pháp trên toàn Liêng bang Đông dương sử dụng lá cờ có nền vàng và ở góc trái trên cao là hình quốc kỳ Pháp, từ năm 1923 đến khi bị  Nhật lật đổ vào 9 tháng 3 năm 1945.

Tại từng vùng thuộc địa trên lãnh thổ Việt Nam, Nam kỳ dùng quốc kỳ Pháp (còn gọi là cờ tam sắc hay tam tài), Bắc kỳ và Trung kỳ dùng cờ biểu tượng cho vua nhà Nguyễn, nhưng cờ này chỉ được treo nơi nào có nhà vua ngự. Cụ thể nó được treo ở kỳ đài ở quảng trường Phu văn Lâu, cột cờ đàn Nam giao ở ngoại ô kinh thành Huế, hay cột cờ Hành Cung ở các địa phương.
Long tinh kỳ nhà Nguyễn từ 1802 đến 1863, và tiếp tục được dùng sau này khi Pháp xâm chiếm Việt Nam cho đến năm 1885



Từ khi Pháp tấn công lãnh thổ Việt Nam, cờ long tinh (nền vàng viền lam chấm đỏ) vẫn được dùng như biểu tượng quyền lực của nhà Nguyễn. Đến năm 1885, người Pháp không chấp thuận cho vua Đồng khánh dùng Long Tinh Kỳ nữa vì lá cờ này thể hiện sự chống đối Pháp (vua Hàm nghi dùng lá cờ này khi chống Pháp). Triều đình Đồng Khánh dùng lá cờ mới cũng có nền vàng, nhưng màu đỏ thì gồm hai chữ Hán Đại Nam, quốc hiệu của nước Việt Nam lúc đó, và lá cờ có tên Đại Nam Kỳ. Tuy nhiên, những chữ viết trên lá cờ không thực sự giống với các nét chữ Hán của quốc hiệu Đại Nam (大南).

Sau khi Thành Thái và Duy Tân bị Pháp bắt đi đày, Khải định lên ngôi theo quan điểm thân Pháp đã thay đổi cờ. Ông dùng cờ nền vàng và một sọc đỏ lớn vắt ngang, và cũng gọi cờ này là cờ long tinh.


Theo một số nguồn, đại kỳ màu vàng cũng có thể đã được treo thường xuyên quảng trường Phu Văn Lâu]. Ngoài ra còn có các Tinh Kỳ, cờ Đại Hùng Tinh, cờ Nhật Nguyệt, cờ Ngũ Hành, được dùng để biểu thị nghi vệ Thiên Tử trong các buổi thiết triều, các dịp tế lễ, hay theo loan giá những khi nhà vua xuất cung. Lá cờ ban cho các khâm sai đặc sứ, còn được gọi là cờ Mao Tiết, thì màu sắc tùy nghi, trên mặt thêu họ và chức vụ của vị khâm sai, chung quanh viền ngân tuyến (chỉ bạc). Các cờ xí treo thời này thường có tua viền xung quanh
cờ long tinh trong giai đoạn cuối của thời Pháp thuộc lần đầu được ấn định làm quốc kỳ nước Đại nam khi Nhật bản dần thay chân Pháp ở Việt Nam. Dưới áp lực của quân Nhật, Pháp cố duy trì ảnh hưởng của họ bằng cách đàn áp các phong trào chống đối và nâng cao uy tín của các nhà vua Đông Dương. Hoàng đế Bảo đại nhân cơ hội này đã đưa ra một số cải cách, trong đó có ấn định quốc kỳ của nước Đại Nam là cờ long tinh; được Toàn quyền Đông dương Jean Decoux Jean Decoux chấp thuận. Cờ long tinh được dùng trên lãnh thổ Đại Nam (Bắc kỳ và Trung kỳ). Nam kỳ vẫn dùng cờ tam sắc của Pháp

Cờ quẻ Ly
Sau khi Đế quốc Nhật đảo chính thực dân Pháp, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập trên danh nghĩa, dưới sự bảo hộ của Nhật. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, ông tuyên bố hủy bỏ hòa ước Quý mùi 1883 và hòa ước Giáp thân 1884. Chính phủ mới được thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là học giả Trần trọng Kim. Quốc hiệu được đổi thành Đế quốc Việt nam và, ngày 8 tháng 5 năm 1945, quốc kỳ được chọn gọi là cờ quẻ Ly. Cờ này cũng nền vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Quẻ Ly  là một trong 8 quẻ của bát quái và gồm một vạch liền, một vạch đứt và một vạch liền; bề rộng của các vạch này chỉ bằng một phần bề rộng chung của lá cờ.


Cờ quẻ Ly về danh nghĩa là cờ của cả nước Việt Nam, nhưng trong thực tế Nhật vẫn cai trị Nam kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh, Nam kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Nam Kỳ, trên thực tế, chưa bao giờ dùng cờ quẻ Ly.
Trong thời kỳ này, Long Tinh Kỳ trở thành lá cờ của hoàng đế, chỉ treo ở Hoàng thành Huế hoặc mang theo những nơi vua tuần du, gọi là Long Tinh Đế Kỳ. Long Tinh Đế Kỳ có sửa đổi nhỏ so với Long Tinh Kỳ trước đó: nền vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với cờ Quẻ Ly.
Cờ đỏ sao vàng

Cờ đỏ sao vàng là lá cờ của Việt minh khi giành chính quyền ở Bắc kỳ tháng 8 năm 1945.
Cuối năm 1940 phong trào kháng chiến chống Thực dân Pháp và Phát xít Nhật diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh Nam kỳ. Từ 21 đến 23 tháng 9 năm 1940, Xứ ủy Nam kỳ họp mở rộng bàn kế hoạch khởi nghĩa. Để tiến tới khởi nghĩa, một vấn đề được đặt ra là cần có một lá cờ để khẳng định tổ chức, thống nhất hiệu lệnh chỉ huy và động viên quần chúng.
Một giả thuyết cho rằng Nguyễn hữu Tiến, một nhà cách mạng được giao nhiệm vụ thể hiện, cũng có thuyết cho rằng vợ chồng nhà cách mạng Lê hồng Phon và Bí thư thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn Nguyễn thị Minh khai sáng tạo để kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Sau nhiều lần phác thảo ông đã cho ra lá cờ nền đỏ chính giữa có ngôi sao vàng. Chiều rộng lá cờ bằng 2/3 chiều dài. Ngôi sao ở mẫu nguyên thủy hơi khác ngôi sao trên quốc kỳ Việt Nam hiện nay. 5 đỉnh của ngôi sao nằm trên đường tròn  có tâm tại chính tâm lá cờ và bán kính 1/5 chiều dài lá cờ (3/10 chiều rộng). 5 đỉnh còn lại của hình đa giác thể hiện ngôi sao nằm trên đường tròn đồng tâm và bán kính bằng 1/10 chiều dài lá cờ.
Nguyễn Hữu Tiến đã sáng tác một bài thơ về lá cờ:
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu với cờ thiêng tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì đất nước
Sao vàng tươi da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi Sĩ-công-nông-thương-binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.
Mẫu cờ được ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa gồm Võ văn Tần, Nguyễn thị Minh khai, Nguyễn văn Cừ... chuẩn y ngay sau đó.
Ngày 23 tháng 11 năm 1940, cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhưng nhanh chóng bị thất bại. Nguyễn Hữu Tiến bị bắt và bị quân Pháp giết ngày 28 tháng 8 năm 1941 cùng các đồng chí của ông như Nguyễn van Cừ,Hà huy Tập,Phan đăng Lưu,Nguyễn thị Minh khai. Trước lúc hy sinh, ông đã đề lại bài thơ, trong đó có câu:
Anh em đi trọn con đường nhé
Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai.
Giả thuyết thứ hai mới đặt lại vấn đề tác giả quốc kỳ trong thời gian gần đây: ông Lê Quang Sô[5][6]. Trong công văn số 1393/VHTT-BTCM do Thứ trưởng Bộ Văn hóa - thông tin Lưu Trần Tiêu ký ngày 18-4-2001 có ghi: "Tất cả các nguồn tài liệu hiện có tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, tại Viện Lịch sử Đảng trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh đều không có tài liệu nào chứng minh đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là người vẽ lá cờ Tổ quốc"[5].
Ngày 5 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cọng hòa Hồ chí minh ký sắc lệnh quyết định quốc kỳ Việt nam là cờ đỏ sao vàng. Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 2 tháng 3 năm 1946 đã biểu quyết nhất trí cờ đỏ sao vàng là quốc kỳ của nước Việt Nam
Cờ vàng năm sọc

Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống được cai quản bởi Anh. Anh sau đó đã giao lại cho Pháp tiếp tục quản lý. Chính quyền Pháp đã khuyến khích phong trào Nam kỳ tự trị. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, Nam kỳ cộng hòa quốc ( tiếng Pháp: République de Cochinchine) đã thành lập. Từ ngày 1 tháng 6, quốc gia này dùng quốc kỳ nền vàng, với 5 sọc vắt ngang ở giữa, gồm ba sọc xanh và hai sọc trắng chen nhau. Hình dáng lá cờ biểu tượng cho ba con sông Đồng nai, Tiền giang và Hậu giang trên đất Nam Kỳ.
Lá cờ này tồn tại được 2 năm cho đến khi chính quyền Nam kỳ quốc giải thể và sát nhập vào quốc gia Việt nam của Bảo Đại ngày 2 tháng 6 năm 1948.

Cờ vàng ba sọc đỏ
Theo thiếu tướng Đỗ Mậu, cựu phó thủ tướng Việt nam cộng hòa, lá cờ vàng ba sọc do linh mục Trần hữu Thanh vẽ ra. Thông tin khác cho rằng do họa sĩ Lê văn Đệ vẽ và đã trình cho vua Bảo đại chọn trong một phiên họp ở Hồng kông năm 1948.  Nó có nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, tượng trưng cho quẻ Càn trong bát quái. Có thông tin cho rằng ba sọc đỏ trên lá cờ còn tượng trưng cho Bắc kỳ (Tonkin), Trung kỳ (Annam), và Nam kỳ (Conchin-China) và ba ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thanh linh.
Bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm sọc bằng một phần ba bề ngang chung của lá cờ. Ngày 2 tháng 6  năm 1948, chính phủ lâm thời của thủ tướng Nguyễn văn Xuân chính thức dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ của Quốc gia Việt nam. Lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ sau này tiếp tục là quốc kỳ chính quyền Quốc gia Việt nam(1949-1955), và sau đó là quốc kỳ cho suốt thời đệ nhất và đệ nhị Việt nam cọng hòa (1955-1975).
Hiện nay, lá cờ này không được phép sử dụng tại Việt nam. Tuy nhiên lá cờ này qua chiến dịch Cờ vàng lại được chính quyền của nhiều thành phố và tiểu bang thuộc Hoa kỳ công nhận là "Lá Cờ Tự Do và Di Sản" (Heritage and Freedom Flag) và như là biểu tượng cho cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại địa phương.


Cờ giải phóng
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, được thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt minh hoạt động ở miền Nam Việt Nam, với mục tiêu đấu tranh chính trị và vũ trang, chống Mỹ và tiến tới thống nhất đất nước. Tổ chức này sử dụng là cờ có nền gồm nửa trên màu đỏ, nửa dưới màu xanh, ở giữa là sao vàng. Thực chất đây chỉ là lá cờ đỏ sao vàng có thêm nền xanh dương. Nửa phần đỏ ở trên tượng trưng cho miền Bắc đã độc lập, nửa phần xanh ở dưới tượng trưng cho miền Nam chưa độc lập và đang bị quân đội Mỹ xâm lược và chiếm đóng. Lá cờ này được dùng làm quốc kỳ cho Cộng hòa miền Nam Việt nam từ khi thành lập năm 1969 để đối trọng với chính phủ Việt nam cọng hòa. Nó được sử dụng đến khi sáp nhập hai nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa miền nam Việt Nam. Tác giả vẽ mẫu lá cờ là ông Võ văn kiệt (Thường vụ Trung ương Cục) và kiến trúc sư Huỳnh tấn Phát (Chủ tịch Mặt trận khu Sài Gòn - Gia Định).

Friday, April 8, 2011

TÂM


1. Thế nào gọi là Tâm ?
Chữ phạn là cita, Tàu dịch ý là Tâm, lắm khi cũng gọi là thức. Nắm lấy cương lãnh của tất cả nghĩa lý thuyết minh về Tâm của Phật học mà cắt nghĩa thì có 3 ý :
a) Phân biệt gọi là Tâm – thế nào gọi là “phân biệt” ? Nghĩa đen của chữ ấy là chia khác. Vậy không những nhận thức phân biệt thứ bị biết này với thứ bị biết kia mới gọi là phân biệt, mà ta lấy một ví dụ cho rõ, như con giun bò đụng hòn thân lửa tức thời nó thụt lùi lại dù nó không biết hòn than đỏ là gì và phía sau nó thụt lùi lại có những gì. Nó thụt lùi lại chỉ vì “bản năng bảo vệ sự sống” vốn có của nó (nói như thuật ngữ Phật học, là câu sanh ngã chấp). Đó cũng là “phân biệt”. Nói tóm hễ phân biệt thì gọi là tâm thức.
b) Tập khởi gọi là tâm – Tâm “phân biệt” phát hiện được là do những khả năng vốn có của nó (gọi theo thuật ngữ là bản hữu chủng tử). Những khả năng này quan hệ với nhau, kích động nhau. Chính do sự quan hệ kích động nhau đó mà những khả năng ấy phát hiện lên (theo thuật ngữ là hiện hành). Sự phát hiện đó lại tăng thêm và kích động cho khả năng vốn có, sự tăng thêm và kích động này gọi theo thuật ngữ là huân tập (và khả năng vốn có bây giờ gọi là tập hành chủng tử). Khả năng vốn có do sự huân tập mà phát hiện lên. Hết thảy hiện tượng về không gian và thời gian chỉ là sự liên tục phát hiện của các khả năng ấy. Ý niệm về thời gian chỉ do sự liên tục của khả năng, ý niệm về không gian chỉ là sự liên hệ của khả năng.
Và Tâm là gì ? là cái cá thể của các khả năng, là chủ thể của sự huân tập (tập) và phát hiện (khởi) của khả năng, nên nói “tập khởi gọi là tâm”, và tập khởi tâm ấy gọi theo thuật ngữ là A đà na thức.
c) Chân tánh gọi là Tâm – Chân tánh là thể tánh chân thật. Chân tánh này có 2 nghĩa :
1) A đà na lấy một phía khả năng thuần túy. Nơi cả thể A đà na, những khả năng đại khái có hai loại : thanh tịnh (vô lậu) và tạp nhiễm (hữu lậu). Ở đây chỉ lấy loại thứ nhất. Cả thể A đà na và khả năng thuần túy ấy gọi là Chân tánh.
2) Chân như của cả thể A đà na gọi là chân tánh.
Cả 2 nghĩa chân tánh ấy, vì là chân tánh của tâm nên cũng tức nghĩa của tâm.
Trong phật học, ngoài những chổ nói tâm với những nghĩa thông thường, phần nhiều ở Tiểu thừa hay nói phần thứ nhất, nghĩa ấy gọi là Duyên lựu tâm. Trong Duy thức học của Đại thừa phần nhiều hay nói nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ hai. Nghĩa thứ hai gọi là Tập khởi tâm. Còn các kinh luân chí cực của Đại thừa lại phần nhiều hay nói nghĩa sau hết, nghĩa Kiên thật tâm.
Nhưng A đà na là cả thể, phân biệt là dụng, còn chân tánh là tánh : 3 nghĩa trên chỉ là 3 tên của tâm mà thôi. Tùy trường hợp, chúng ta phải hiểu chữ tâm mỗi nơi mỗi khác. Nhưng đến cùng thì phải hiểu TÂM với những ý nghĩa như vậy mới cụ thể.
2.  Những quan niệm sai lầm.
Hầu hết tất cả chúng ta hễ nghe nói đến tâm thì tức thời có 3 quan niệm sau đây ;
- Tâm ở trong thân
- Tâm là những hiện tượng lý trí, tình cảm và ý chí.
- Tâm là biết, đối lại với cái bị biết là vật.
Do những quan niệm này tạo thành một nhận định về tâm, hầu như thành thói quen rằng tâm khác với vật, trong vũ trụ có hai loại ấy đối lập hẳn nhau.
Phải nói mau lẹ rằng những quan niệm ấy đối với chữ tâm của Phật học chỉ là những ngộ nhận.
Trước hết, cái thành kiến tim não là tâm thì ngàn xưa Phật học đã bảo đó là nhục đoàn tâm, là khối thịt có khác với ngoại vật (khối thịt ở ngoài) bởi chỗ có “chấp thọ” hay không mà thôi.
Còn vật chất ? khoa học nói những năng lực chậm nhất làm cho ta có cảm giác là  vật chất. Phật học nói chỉ là hiện hành của chủng tử (khả năng) liên tiếp phát hiện, như vòng lửa chỉ do cây hương liên tiếp quay ra.
Hết thảy hiện hành gồm có hai phần là biết (kiến phần) và bị biết (tướng phần). Đứng trên nguyên tắc “chủng tử sanh hiện hành” thì khả năng nào phất hiện hiện hành ấy, nhưng đứng trên nguyên tắc “hiện hành sanh hiện hành” thì sự phát hiện này liên hệ với sự phát hiện khác. Cho nên có hoa (bị biết) mới có sự thấy (biết), nhưng cái thấy ấy không có hạt giống (khả năng) của nó thì cái hoa kia trước mắt chỉ như trước cặp kính mà thôi, không thể có sự thấy được.
Và tất cả hiện hành biết, bị biết, đều chỉ là tác dụng của tâm, của A đà na, như hết thảy hiện tượng chỉ là biểu tướng của năng lượng. (Đứng về A đà na mà nói thì năng lượng cũng chỉ hiện hành và năng lượng đối với hiện tướng chỉ là hiện hành sanh hiện hành).
Những hiện tượng về tâm lý mà thông thường cho là tâm chỉ là một vài tác dụng về loại biết của tâm trong phạm vi con người. Còn thân thể đối với tâm thì ta có thể ví dụ tuy không được đúng lắm, rằng chỉ như điện khí không gian một phần thu vào bóng đèn, mà những tâm của người ta nói chỉ như ánh sáng ấy.
Nhưn thật ra biết là tâm, bị biết cũng là tâm, thân là tâm mà cảnh cũng là tâm. Khắp không gian, cùng thời gian, đâu là hiện hành thì đó do chủng tử phát hiện và chủng tử chỉ là khả năng, hiện hành chỉ là biểu tướng của tâm mà thôi
                                                                                                                       30.8.2493
                                                                                                                            Tq

Friday, April 1, 2011

PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

Thế nào gọi là bồ đề ?
      Chữ “bồ đề” nguyên dịch âm chữ Boddhi của tiếng phạn mà ra. Chữ ấy dịch ý cho đúng thì phải dịch là giác, ý nghĩa là trí giác hay giác ngộ.
Đối lập với trí giác hay giác ngộ là mê hoặc. vì vậy, bồ đề là luôn luôn phản lại mê hoặc, tiêu diệt mê hoặc.
Nhưng mê hoặc với trí giác chỉ là hai dụng của Tâm tánh. Nên đồng là biết mà biết sai thì gọi là mê, biết đúng thì gọi là giác ; ví như một cánh tay mà chỉ lên thì gọi là xuôi, còn chỉ xuống thì gọi là ngược, chứ không chi khác.
Bởi vậy nên trong kinh nói bồ đề là trí giác của tất cả chúng sanh sẵn có. Và khi nào chúng ta phát triển trí giác ấy triệt để, hoàn toàn sang suốt, tiêu trừ mê hoặc không còn mảy may nào nữa, thì khi ấy gọi là Vô thượng bồ đề (trí giác tuyệt đối).
Thế nào gọi là “bồ đề tâm” ?
      Như trên kia đã cắt nghĩa, chúng ta thấy : a) cái trí giác (biết đúng) của Tâm gọi là bồ đề, b) khi trí giác ấy phát triển đến giai đoạn hoàn toàn thì thiệt mới gọi là bồ đề hay Vô thượng bồ đề. Vậy bồ đề tâm là thế nào ? cắt nghĩa vắn tắt thì có 2 ý nghĩa sau đây :
1) Cái tâm chí, cái thệ nguyện cầu mong Vô thượng giác (vô thượng bồ đề) gọi là bồ đề tâm ;
2) Tâm tánh chúng ta có trí giác (sự hiểu biết đúng đắn) nên gọi là bồ đề tâm.
Như lửa đặc tánh là nóng, nước đặc tánh là lỏng. Tâm cũng vậy, đặc tánh của nó là bồ đề (nhận thức, phân biệt). Nhưng áp dụng đặc tánh ấy sai thì gọi là mê, mà áp dụng đúng thì gọi là ngộ. Thành thử, cắt nghĩa cho rộng rãi thì chính vì tâm có đặc tánh “biết” (bồ đề) nên gọi là bồ đề tâm. Và có cái đặc tánh ấy nên mới có thể có cái chí nguyện mong cầu vô thượng giác : cái năng lực ấy và cái chí nguyện ấy cũng gọi là bồ đề tâm.
Thế nào gọi là “phát bồ đề tâm ?
      Hiểu “bồ đề” là gì và thế nào gọi là “bồ đề tâm” rồi, bây giờ “phát bồ đề tâm” là thế nào ? chúng ta có thể hiểu một cách rõ ràng lắm :
1) Chữ “phát” nghĩa là lập ; lập chí nguyện mong cầu Vô thượng bồ đề, gọi là phát bồ đề tâm.
2) Chữ “phát” lại có nghĩa là phát triển : phát triển cái đặc tánh giác ngộ của Tâm, gọi là phát bồ đề tâm.
Bởi vậy, sự tu hành bắt đầu lập chí nguyện rộng lớn, chí nguyện trên mong cầu trí giác tuyệt đối dưới giáo hóa lợi ích cho tất cả các loài chúng sanh, thì gọi là “Phát bồ đề tâm”. Phát chí nguyện ấy rồi, trung gian dùng ba chữ phương pháp nghe học (văn), suy nghĩ (tư) và thực hành (tu) mà phát triển cái đặc tánh trí giác của tâm, thì mới thật là “phát bồ đề tâm”.
Cuối cùng, khi trí giác hoàn toàn sang suốt, như đìa gương lớn hết bụi bặm, chiếu soi sự vật một cách rõ ràng, nói tóm tắt, nghĩa là đã được Vô thượng bồ đề, thì đó mới là phát triển bồ đề tâm một cách cứu cánh.
Ấy vậy, tự thỉ chí chung của con đường tu hành chỉ là PHÁT BỒ ĐỀ TÂM.
Làm thế nào có thể phát bồ đề tâm ?
      Những điều kiện làm cho bồ đề tâm được phát ra có hai phần : một, những điều kiện ở trong gọi là nhân. Hai, những điều kiện ở ngoài giúp thêm gọi là duyên.
“Duyên” ở ngoài là nhờ sự giáo hóa điều phục của các vị Thiện tri thức, các đức Phật, các vị Bồ tát, hoặc nhờ thánh giáo kích thích, hoặc nhờ suy nghĩ đến những nỗi khổ của chúng sanh. Nói chung là tất cả mọi điều kiện hoặc thuận hoặc nghịch mà có thể làm cho bồ đề tâm phát ra được, đều gọi là duyên cả.
“Nhân” là cái năng lực ở trong, tức là lòng đại bi thương giúp chúng sanh, là cái tự giác giác ngộ quan sát. Nói tổng quát thì nhân của bồ đề tâm tức là vô lậu chủng tử trong đó có chủng tử của huệ tâm sở.
Phát bồ đề tâm, dù về mặt mong cầu Vô thượng giác, dù về mặt phát triển trí giác của tâm, mặt nào cũng phải do có vô lậu chủng tử ở trong được kích thích bởi các duyên thù thắng ở ngoài mới phát ra được. Trong Phật giáo không một cái gì, dù là Tâm bồ đề vô thượng đi nữa, mà không do nhân duyên phát hiện ; nói tự nhiên có là một điều những người Phật tử không thể thừa nhận được.
      Tóm tắt, bước đầu của người tu hành là phát bồ đề tâm bằng cách lập chí nguyện mong cầu Vô thượng giác, nghĩa là trên cầu trí giác, dưới độ chúng sanh. Cái nhân của sự phát bồ đề tâm ấy là lòng từ bi nghĩ đến nỗi khổ của muôn loài và sự hy vọng đối với trí giác của chư Phật, cái duyên của sự phát bồ đề tâm ấy là văn tư tu chánh pháp.
Kinh Hoa nghiêm có nói : “Quên mất tâm bồ đề mà thực hành các điều thiện thì đó là ma nghiệp”. Xem đó chúng ta thấy nếu không dùng duyên như vậy kích thích nhân như vậy để lập cái chí nguyện cao cả, cái chí mong cầu Vô thượng biến giác, thì bao nhiêu việc làm của chúng ta chỉ như xây lâu dài trên hư không : “việc không thể có được”, đó là lời Phật dạy trong kinh Duy ma.
                                                                2.8.2493
                                                                    Tq